Về ăn sò huyết Ba Đồn
Có những lần trở về không phải là kết thúc, mà là một phép tính ngược trong đời: người ta đem hết những gì đã được, đã mất ở phố thị, ở những chặng đã qua để mà chiêm ngẫm, xem còn lại điều gì là thật.
Tôi nhớ chuyến trở về ấy của nhà báo Lê Minh Toản - không phải dịp lễ hội, chẳng phải chuyến du lịch hẹn trước - mà là một khúc nối giữa hai miền: Hà Nội dài bốn mùa hội họp, và Ba Đồn, nơi sông Gianh uốn khúc như một điệu ru đầy chất thơ.
Sò huyết Ba Đồn - một mâm, một đời

Cùng anh em đồng nghiệp bên bờ Nhật Lệ
Ngày Lê Minh Toản “bẻ bút”, anh nói với chúng tôi như rút một mũi dao bén khỏi thân mình: “về thôi!”. Người ta bảo: “Công danh như nước chảy qua cầu”. Minh Toản cười, châm điếu thuốc Jet: “Tôi về với mẹ, về với sông thôi”. Không cần lời giải thích dài. Những người đã đi xa đều hiểu: có những lúc cây bút không còn viết được, hoặc ngược lại, lòng người không còn muốn viết. Chúng tôi đi cùng anh, không phải để hỏi lý do, mà để chứng kiến cách một người dọn hành lý tinh thần của mình - bằng một chuyến trở về quê cũ, nơi anh đã từ đó ra đi.
Tuệ tĩnh
Trong phòng Lê Minh Toản có treo hai chữ nhà báo Xuân Ba đề tặng: “Tuệ Tĩnh. Tuệ Tĩnh – ấy là cái trí biết soi sáng giữa vô minh, biết nhìn xuyên qua phù hoa của nghề chữ để nhận ra đâu là sự thật. Trí tuệ không phải chỉ nằm ở lượng chữ viết ra, mà ở khả năng thấy cái chưa ai thấy, nói cái cần nói mà không tổn thương ai. Tuệ tĩnh là cái sáng của người từng trải, và cái lặng của kẻ biết dừng, biết sợ. Càng đi xa, nỗi sợ ấy càng lớn.
Buổi trưa ấy kéo sang chiều, nắng nhẹ rớt trên mái ngói cũ, lối ngõ quanh nhà phủ kín bóng cây. Trong căn nhà nhỏ, mấy anh em cùng vài người bạn của Minh Toản quây quần. Không khí giản dị, tiếng cười lẫn tiếng lá rơi bên hiên. Giữa mâm là sò huyết Ba Đồn - đỏ tươi như một vết son trên bản đồ cuộc đời.
Người Ba Đồn không chỉ cho ta thức ăn; họ cho ta một nghi lễ. Chủ quán là vợ chồng đã có tuổi, hiền lành. Quán mở ra chỉ cốt để đãi khách phương xa, mỗi dịp về quê muốn neo lại cái hồn ẩm thực nơi đây. Huyết sò tách riêng - đỏ không lẫn, sánh như son - trộn cùng thịt sò vừa đủ, khế chua, dứa, hoa chuối thái nhỏ, hành tăm, lạc rang, tiêu, ớt, tỏi, chanh, mắm nêm; rồi hàng loạt rau chua chát, húng quế, húng lìu, rau răm, diếp cá. Bánh tráng bóp vụn rắc lên như một đối âm giòn rụm. Mỗi vị một câu chuyện, mỗi mảng màu một thời gian.
Lần ấy, tôi thấy cái ngạc nhiên của kẻ đi xa: vị mặn của biển, vị chua của khế như một vết nhớ, vị cay của ớt như những lời chưa nói. Rượu đế Lệ Thủy - Minh Toản gọi đó là “nước mắt quê hương” - đặt vào lòng, đẩy vị vào sâu hơn, làm cho mọi xúc cảm bừng tỉnh. Chúng tôi cười, uống, kể chuyện vặt, như không muốn chạm thẳng vào những nút thắt thực sự. Bữa ăn trở thành chiếc màn mỏng che một cuộc chia tay chẳng nói ra.
Nhưng chính trong cái không nói ấy, đời vẫn nói. Người rời đô hội không phải vì họ chán những tầng lớp phù phiếm; họ rời vì nhận ra rằng nơi chốn đã nuốt mất những thứ tinh tế nhất trong họ: tiếng ru, khẩu vị, nếp ăn. Một đời người có thể đầy ắp danh vọng, bằng khen, hợp đồng -nhưng khi đặt vào mâm một con sò huyết được làm theo lối quê, người ta mới biết mình đã đói điều gì. Đó không phải đói miếng ăn - mà đói “nhà”, đói “gốc”, đói quê.

Nhà báo Xuân Ba trong một lần cho chữ nhà báo Minh Toản
Ký sự không chỉ tường thuật; ký sự nhìn thấy dấu: dấu vết bàn tay, dấu vết thời gian trên mép bát, dấu vết một tuổi trẻ đã xa. Khi Minh Toản nói ít, mắt anh rưng; khi chúng tôi nâng ly rượu, anh cười như người đã trả xong một khoản nợ vô hình. Bỏ phố về quê - có thể là người ta đang dỗi phố, đang hờn một ai, hay là tránh những thị phi - nhưng sâu hơn là một trả lời cho chính mình: “Ta còn cần gì? Ta chịu mất gì?”. Trong tiếng cười và trong mùi mắm nêm, câu trả lời lửng lơ như hơi nước trên mặt sông Gianh trôi tự thuở nào.
Sò huyết Ba Đồn vì vậy là một thứ văn tự của đất, của nơi hội tụ những dòng sông đổ vào cửa biển: đủ mười vị để dạy ta về cuộc sống. Khế chua dạy ta rằng ký ức có lúc cần chua để tỉnh; dứa dạy ta rằng ngọt có khi là quà cho lòng; hoa chuối và hành tăm dạy ta sự kiên nhẫn của lao động; lạc rang dạy ta rằng cái cứng phải được xay để mềm; rau chua chát dạy ta rằng trải nghiệm đắng-chát làm nên vị tượng trưng cho trưởng thành. Rượu đế, cay nồng, là phép làm mới cảm giác: biết uống để thấy, biết thấy để buông.
Chúng tôi không hỏi Minh Toản vì sao quyết bẻ bút. Anh cũng không giãi bày. Ở miền Trung, người lớn tuổi hay nói ít; họ để lại không gian cho người khác tự điền vào. Có lẽ anh đã nhìn thấy tuổi trẻ mình, đã thấy mảnh vườn cha mẹ, đã nghe tiếng gà mỗi sớm, và thấy rằng thứ đó là món quà không thể đổi bằng danh tiếng. Khi người ta đã từng đứng trên đỉnh cao - trở về là để học cách đau khổ nhẹ nhàng hơn, học cách im lặng mà không sợ.

Nhà báo Minh Toản trong lần "bẻ" bút về quê
Ký sự bàn về nhân sinh phải có khả năng quay vào chính người viết. Khi kể lại bữa ăn sò huyết, tôi thấy một tôi khác khi ở Hà Nội; tôi giản dị hơn khi ở Ba Đồn. Tôi thấy rằng ẩm thực có quyền năng chữa lành-không phải vết thương thể xác, mà vết rạn tinh thần. Một mâm sò huyết giữa làng quê làm dịu những vết rạn đó bằng một thứ ngôn ngữ cổ xưa: vị, mùi, tiếng cười trong trưa vắng.
Chiều ấy, sông Gianh như một tấm gương mờ, hoa nắng cuối ngày lấm tấm trên mặt nước. Chúng tôi ngồi thêm vài chén, nói dăm ba chuyện tếu, đùa về những ngày làm báo, về những cuộc họp lâu năm, về những ao cá sấu, những chảo lửa trong phòng thư kí một thời chưa xa mấy…rồi lặng đi. Những chuyện đời lớn thường được giải quyết bằng sự im lặng, giống như nước chảy nhưng không làm ồn. Minh Toản lại châm thuốc Jet, nhìn ra xa - ánh mắt thoáng có một thứ tĩnh không cần diễn giải. Tôi hiểu: anh quay về không để từ bỏ thế giới; anh trở về để thu gọn thế giới đó vào một cái nhìn khác, nhẹ nhàng hơn, sáng suốt hơn.
Về thành phố sau chuyến đi, tôi mang theo mùi mắm nêm, vị khế chua, vết đỏ của huyết sò trên đầu lưỡi và một câu hỏi: chúng ta sống vì điều gì? Có thể là vì công danh, tiền bạc, hay vì một mâm cơm đủ đầy? Câu trả lời không dứt khoát. Nhưng tôi tin: ai từng một lần ngồi bên mâm sò huyết Ba Đồn, sẽ nhớ được mùi gốc rễ của mình, và từ đó biết chọn lựa.

Ăn sò huyết Ba Đồn như một nghi thức. Ảnh: Nguyễn Tuấn
Ký sự này chỉ muốn ghi lại một khoảnh khắc - một người từng bẻ bút, một mâm sò, những người anh em uống rượu đế, cười lành, và một êm đềm sau cùng. Cái êm đềm ấy, đôi khi, là một thắng lợi lớn hơn mọi danh vọng. Vì thắng lợi thực chất của đời người là tìm lại được tiếng nói chân thật của mình, dù tiếng nói ấy chỉ là thổn thức khi ăn một miếng sò huyết, khi uống một ly rượu đế, khi nếm thấy vị dứa và khế chua.
Và nếu có ai đó hỏi: món gì của Ba Đồn khiến người ta trở về? Tôi sẽ nói: không phải món ăn, mà là khả năng của món ăn - khả năng mở một cánh cửa, đưa con người trở về ngồi đối diện chính mình. Có những cuộc trở về chỉ cuộc rượu và những con sò, gọi là “trở về”, nhưng trong đó có đủ mùi vị để gọi tên một đời.
Nghiệp chữ
Sau lần trở về ăn sò huyết bên sông Gianh ấy, ai cũng nghĩ Lê Minh Toản sẽ rời hẳn nghiệp báo, về trồng cây, đọc sách, uống trà, để mặc đời lặng trôi. Nhưng không hiểu sao, sau khi ra Hà Nội, anh lại... không bẻ bút nữa.
“Nghiệp chữ” là thứ khó rũ nhất. Nó như mạch ngầm, chảy trong người. Minh Toản vẫn tiếp tục làm việc, mà lại hăng hơn trước. Đồng nghiệp nhiều người cũng mừng - vì tờ báo còn một “của hiếm”: vì chữ đến độ sống chết. Anh vẫn xuất hiện đều trong các buổi giao ban, vẫn khắt khe trong từng câu, từng từ, từng bản thảo. Chữ cũng như người, phải cho nó cơ hội để sáng lên.
Khi Minh Toản lên sếp to hơn, nhà báo Xuân Ba mài mực tặng chữ: “Kỳ nghiêm hồ”. Chữ ấy như lưỡi gươm bằng mực, vừa tặng vừa thử, vừa quý vừa răn: “Kỳ nghiêm hồ” - lời cảnh tỉnh: Đáng sợ thay!
Sợ điều gì? Chỉ người cho chữ và người được nhận biết rõ.
Nhưng tôi nghĩ, thứ đáng sợ nhất là sợ chính mình. Sợ mình quên mất cái tâm ban đầu khi cầm bút.
Hoàn nguyên
Ngày Lê Minh Toản nhận quyết định nghỉ hưu, anh bảo: – “Lần này tôi về thật, không ở lại Hà Nội nữa!”. Bảy năm sau chuyến về Ba Đồn ăn sò huyết, mới dứt được nợ bút mực chăng? Cuộc đời duyên nợ – nợ đất, nợ nghề, nợ người, nợ chính mình. Khi trả xong, người ta mới có thể mỉm cười để mà hoàn nguyên, trở về.
Minh Toản nói hôm chia tay: “Một vòng lục thập hoa giáp, ta lại như trở về thời con trẻ: Lục thập tác tùy nghi – ưa gì làm nấy! “Hưu” trong Hán tự là người dựa vào cây, là về vườn, về với cây cỏ. An nhiên thay, vô tư thay, lành thay. Mới một tuổi rưỡi trong vòng đời mới, tôi hạnh phúc được ưa gì làm nấy!”.
Một đời viết, một đời chỉnh từng câu, từng chữ – giờ đây, anh được tự viết cho chính mình. Không còn deadline, không còn điện thoại sau 21 giờ hiện lên dòng chữ “A. Lê Minh Toản” bao lần khiến cho người trợ lý của anh thót tim!
Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/ve-an-so-huyet-ba-don-post1792343.tpo











