Việt Nam là quốc gia đầu tiên có Luật Công nghiệp Công nghệ số
Ngày 14/6, các đại biểu Quốc hội đã tham gia biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số với 441/445 tán thành (tỷ lệ tán thành 92,26%). Như vậy, Việt Nam là quốc gia đầu tiên có luật này.

Các đại biểu Quốc hội đã tham gia biểu quyết thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số với 441/445 tán thành (tỷ lệ tán thành 92,26%). Ảnh: PV
Luật Công nghiệp Công nghệ số (CNCNS) không chỉ là một đạo luật chuyên ngành, mà còn được kỳ vọng là đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Đây là thời điểm vàng để Việt Nam xây dựng được nền tảng pháp lý chủ động, mở đường cho doanh nghiệp công nghệ trong nước phát triển vững chắc, hội nhập sâu rộng và góp phần tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong kỷ nguyên số.
Việt Nam cũng trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành một bộ luật riêng về lĩnh vực CNCNS.
Luật CNCNS đã kịp thời thể chế hóa được nhiều nội dung quan trọng trong các Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, như: Thúc đẩy, ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp công nghệ số phát triển, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài công nghệ số; phát triển hạ tầng công nghệ số thiết yếu, dùng chung; hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; xây dựng cơ chế đặt hàng và xây dựng khung pháp lý về thử nghiệm có kiểm soát...
Luật CNCNS không chỉ là một văn bản pháp lý, mà còn là kim chỉ nam giải quyết các bài toán lớn của ngành công nghiệp công nghệ số.
Đây là những thách thức quan trọng nhằm biến công nghệ số thành động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Đồng thời, luật còn giúp Việt Nam định vị mình trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu, cạnh tranh với các nền kinh tế số hàng đầu thế giới.
Bên cạnh đó, Luật CNCNS cũng đưa ra một số bài toán lớn và giải pháp để ngành CNCNS trở thành động lực kinh tế chủ đạo với tốc độ tăng trưởng gấp 2-3 lần GDP.
Luật CNCNS đưa ra các chính sách ưu đãi đặc biệt và giải pháp đột phá. Các dự án có vốn đầu tư lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm, hỗ trợ tài chính từ Quỹ đầu tư phát triển và chi phí nghiên cứu phát triển (R&D) được tính gấp đôi, thậm chí gấp ba đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thủ tục hành chính được đơn giản hóa thông qua cơ chế phân cấp thẩm quyền thành lập khu công nghiệp công nghệ số cho UBND cấp tỉnh và áp dụng chế độ ưu tiên hải quan “luồng xanh”.
Nhà nước ưu tiên đầu tư vào hạ tầng thiết yếu như trung tâm dữ liệu, mạng 5G, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại.
Thị trường nội địa được mở rộng bằng cách thúc đẩy sử dụng sản phẩm công nghệ “Make in Vietnam” trong các dự án ngân sách và đặt hàng phát triển công nghệ chiến lược.

Luật Công nghiệp Công nghệ số CNCNS không chỉ là một đạo luật chuyên ngành, mà còn được kỳ vọng là đòn bẩy thể chế cho quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Tăng tỷ trọng Việt Nam trong ngành CNCNS
Luật CNCNS tập trung nâng cao tỷ trọng sản phẩm công nghệ nội địa trong ngành thông qua các giải pháp chiến lược và chính sách hỗ trợ cụ thể.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được khuyến khích chuyển giao công nghệ và hợp tác với doanh nghiệp trong nước thông qua ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm nếu đáp ứng yêu cầu này.
Doanh nghiệp khởi nghiệp nội địa nhận hỗ trợ 50% kinh phí để mua công nghệ tiên tiến và phát triển mẫu thử, giúp nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm “Make in Vietnam”.
Các sản phẩm công nghệ số nội địa được ưu tiên sử dụng trong các dự án ngân sách nhà nước, đảm bảo thị trường đầu ra ổn định và bền vững.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) được hưởng ưu đãi tối đa, bao gồm miễn giảm thuế và hỗ trợ tài chính, nhằm thúc đẩy sáng tạo, đổi mới, giúp sản phẩm Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Để thúc đẩy chuyển đổi số và tăng tỷ trọng doanh nghiệp ứng dụng CNCNS, Luật CNCNS triển khai các giải pháp toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
Chương trình phát triển CNCNS hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các hoạt động xúc tiến, đào tạo kỹ năng số và cung cấp giải pháp công nghệ phù hợp với từng ngành nghề.
Nhà nước cũng hỗ trợ tài chính, chi phí triển khai công nghệ số cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo môi trường thuận lợi để công nghệ số thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực kinh tế.
Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam ra thế giới
Luật CNCNS đặt mục tiêu đưa doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế, gia tăng doanh thu và khẳng định thương hiệu toàn cầu.
Chương trình “Make in Vietnam” được quy phạm hóa, triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường nước ngoài.
Sản phẩm công nghệ số nội địa được ưu tiên trong các dự án mua sắm công, tạo nền tảng vững chắc để phát triển thị trường trong nước trước khi vươn ra quốc tế.
Các dự án có vốn đầu tư lớn được hưởng ưu đãi giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong nhiều năm, hỗ trợ tài chính từ Quỹ đầu tư phát triển, và miễn giảm thuế nhập khẩu thiết bị công nghệ cao.
Đặc biệt, Nhà nước xây dựng mạng lưới đại diện CNCNS Việt Nam tại các thị trường trọng điểm, kết hợp với các chương trình hợp tác quốc tế, giúp doanh nghiệp Việt Nam từng bước trở thành các công ty đa quốc gia, cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới.