Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài liệu giảng dạy và nghiên cứu trong giáo dục
Tính đến tháng 6/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn tất số hóa khoảng 50 nghìn cơ sở giáo dục; hơn 27 triệu hồ sơ điện tử học sinh, hơn 1,4 triệu hồ sơ giáo viên và hơn 115 nghìn hồ sơ của cán bộ quản lý, người lao động.

Quang cảnh buổi làm việc.
Sáng 28/7, tại Hà Nội, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn đã làm việc với đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Tại buổi làm việc, Phó Cục trưởng Khoa học, Công nghệ và Thông tin (Bộ Giáo dục và Đào tạo) Đặng Thị Oanh cho biết: Tính đến tháng 6/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hoàn tất số hóa khoảng 50 nghìn cơ sở giáo dục; hơn 27 triệu hồ sơ điện tử học sinh, hơn 1,4 triệu hồ sơ giáo viên và hơn 115 nghìn hồ sơ của cán bộ quản lý, người lao động. Dữ liệu này đã được kết nối, định danh, xác thực và bổ sung vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với khoảng 24,3 triệu hồ sơ giáo viên và học sinh.
Đáng chú ý, từ năm 2022 đến nay, mỗi năm có hơn 1 triệu thí sinh thực hiện đăng ký trực tuyến kỳ thi tốt nghiệp THPT cũng như đăng ký xét tuyển đại học, cao đẳng, minh chứng rõ nét cho hiệu quả của cơ sở dữ liệu số trong phục vụ người học.
Riêng giáo dục đại học, đến hết tháng 6/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã số hóa 470 cơ sở đào tạo; hơn 177 nghìn hồ sơ điện tử cán bộ, giảng viên và người lao động; hơn 4 triệu hồ sơ người học; hơn 34 nghìn thông tin về chương trình đào tạo và hơn 9 nghìn thông tin ngành đào tạo. Hệ thống còn lưu trữ hơn 44 nghìn thông tin về nhiệm vụ khoa học-công nghệ và 117 bài báo công bố trong nước.
Cùng với đó, hơn 101 nghìn người học; hơn 10.400 nhà giáo, cán bộ quản lý và 208 cơ sở giáo dục nghề nghiệp cũng đã được số hóa, góp phần hoàn thiện bức tranh chuyển đổi số toàn ngành.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn khẳng định: Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục là nền tảng quan trọng, không chỉ phục vụ thống kê mà còn thúc đẩy kết nối và quản lý hiệu quả. Đồng thời, ghi nhận sự đồng hành, hỗ trợ của Bộ Công an, các ban, bộ, ngành Trung ương, doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước của ngành.
Bộ trưởng cũng dẫn chứng việc ứng dụng chuyển đổi số vào một số khâu trong kỳ thi tốt nghiệp THPT và xét tuyển đại học, cao đẳng những năm gần đây như một minh chứng sinh động và rõ nét về lợi ích của cơ sở dữ liệu quốc gia. Từ kết quả này, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn bày tỏ kỳ vọng thời gian tới sẽ xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia về tài liệu giảng dạy và nghiên cứu, phục vụ công tác quản lý chuyên môn, đào tạo và nghiên cứu khoa học của ngành giáo dục.
Ghi nhận kết quả đạt được của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong xây dựng cơ sở dữ liệu ngành, Thứ trưởng Công an, Trưởng Nhóm Công tác số 3, Thượng tướng Nguyễn Văn Long nhấn mạnh yêu cầu phát triển nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia theo nguyên tắc “đúng-đủ-sạch-sống”.
Để đạt mục tiêu này, Thứ trưởng Công an gợi ý cần rà soát hạ tầng số của ngành giáo dục, bảo đảm tính đồng bộ từ Trung ương tới địa phương và kết nối thông suốt với cơ sở dữ liệu quốc gia. Hiện dữ liệu học sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT, xét tuyển đại học có thể phục vụ cho Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công tác quản lý, điều hành, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Thượng tướng Nguyễn Văn Long nhấn mạnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục chỉ đạo quyết liệt công tác chuyển đổi số, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên môn để xây dựng kiến trúc dữ liệu toàn ngành giáo dục. Kiến trúc này không chỉ mang tính chất quốc gia, mà có thể liên thông, kết nối với dữ liệu quốc tế nhằm phục vụ nhu cầu chia sẻ, hợp tác và hội nhập.
Đồng thời, đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo sớm xây dựng kế hoạch cụ thể, phân định rõ trách nhiệm của từng đơn vị và kết quả. Đặc biệt, việc bảo đảm an toàn, an ninh của hệ thống phải được coi là ưu tiên hàng đầu; trước hết, cần tập trung phát triển cơ sở dữ liệu phục vụ trực tiếp cho các thủ tục hành chính và công tác điều hành chung của Chính phủ, nhất là trong bối cảnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp.