Quy định mới về hoạt động đầu tư các quỹ bảo hiểm
Chính phủ ban hành quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư từ các quỹ bảo hiểm, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ thông qua việc mở rộng danh mục và phương thức đầu tư...

Ảnh minh họa.
Chính phủ ban hành Nghị định số 212/2025/NĐ-CP quy định chi tiết hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, có hiệu lực thi hành từ ngày 25/7/2025.
Nghị định quy định danh mục đầu tư tại thị trường trong nước bao gồm các sản phẩm: (1) Công cụ nợ của Chính phủ gồm trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, công trái xây dựng Tổ quốc; (2) Trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
(3) Tiền gửi tại các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt.
(4) Trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước trên 50% vốn điều lệ; không thực hiện đầu tư tại các ngân hàng thương mại đang được kiểm soát đặc biệt.
Danh mục đầu tư tại thị trường quốc tế là trái phiếu Chính phủ.
Theo Nghị định, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện tự đầu tư hoặc ủy thác đầu tư. Trường hợp ủy thác đầu tư, Bảo hiểm xã hội Việt Nam xây dựng phương án thực hiện để báo cáo Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội thông qua trong phương án đầu tư hằng năm.
Trên cơ sở phương án được Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội thông qua, Bảo hiểm xã hội Việt Nam lựa chọn tổ chức ủy thác đầu tư và ký hợp đồng.
Về sử dụng tiền sinh lời của hoạt động đầu tư, Nghị định nêu rõ, trích lập quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc: Mức trích quỹ dự phòng rủi ro hằng năm tối đa không quá 2% số tiền sinh lời của hoạt động đầu tư, cho đến khi số dư quỹ dự phòng rủi ro bằng 5% số dư nợ đầu tư vào các sản phẩm quy định tại khoản 3, 4 danh mục đầu tư nêu trên của năm trước liền kề.
Mức trích cụ thể do Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định. Quỹ dự phòng rủi ro trong thời gian chưa sử dụng được đầu tư vào công cụ nợ của Chính phủ.
Phần còn lại được phân bổ vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo tỷ lệ số tiền sinh lời đóng góp của từng quỹ, trên tổng số tiền sinh lời của các quỹ trong năm và sử dụng.
Cụ thể, tiền sinh lời phân bổ vào quỹ bảo hiểm xã hội sau khi trích chi tổ chức và hoạt động bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Số còn lại bổ sung vào các quỹ thành phần theo tỷ lệ số tiền sinh lời đóng góp của từng quỹ thành phần trên tổng số tiền sinh lời của quỹ bảo hiểm xã hội.
Tiền sinh lời phân bổ vào quỹ bảo hiểm y tế được bổ sung vào quỹ dự phòng để sử dụng theo quy định của pháp luật.
Tiền sinh lời phân bổ vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp được bổ sung vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp để sử dụng theo quy định của pháp luật.
Việc phân bổ, sử dụng tiền sinh lời theo quy định nêu trên được thực hiện hằng tháng, và được điều chỉnh khi quyết toán hằng năm.
Toàn bộ tiền lãi của các tài khoản phản ánh thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp (bao gồm lãi gửi tiền có kỳ hạn theo phương thức chuyển tiền tự động) thực hiện theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định cơ chế tài chính về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chi tổ chức và hoạt động của bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Tương tự, chi phí đầu tư và việc theo dõi, hạch toán khoản đầu tư, Nghị định quy định các chi phí liên quan tới hoạt động đầu tư (chi phí lưu ký, giao dịch và chi phí khác theo quy định của pháp luật) cũng được hạch toán, chi trả theo quy định tại Nghị định của Chính phủ nêu trên.
Số tiền gốc thu được từ khoản đầu tư được theo dõi và hạch toán độc lập theo từng quỹ (quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ dự phòng rủi ro). Trong đó, đối với quỹ bảo hiểm xã hội chi tiết theo từng quỹ thành phần, và được hạch toán theo chế độ kế toán của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Toàn bộ số tiền sinh lời thu được từ khoản đầu tư (bao gồm tiền sinh lời từ quỹ dự phòng rủi ro), được phân bổ vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các quỹ thành phần của quỹ bảo hiểm xã hội; được hạch toán theo chế độ kế toán của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Số tiền thu hồi từ hoạt động đầu tư đã quá hạn trả nợ, được hạch toán theo thứ tự thu đủ nợ gốc trước, thu nợ tiền sinh lời sau. Trường hợp có phán quyết của tòa án nêu cụ thể, số tiền thu hồi được hạch toán theo bản án của tòa án.
Nghị định số 212 nêu rõ, hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tuân thủ nguyên tắc đầu tư của từng quỹ quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế và Luật Việc làm.
Việc ưu tiên đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, nhất là trái phiếu Chính phủ dài hạn, do Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội quyết định tại phương án đầu tư hằng năm, và được xác định bằng tỷ trọng số dư trái phiếu Chính phủ so với số dư tổng danh mục đầu tư của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/quy-dinh-moi-ve-hoat-dong-dau-tu-cac-quy-bao-hiem.htm