Thiết lập tiêu chuẩn tín chỉ carbon rừng: Cấp thiết 'mở đường' cho tư nhân
Theo giới chuyên gia, việc ban hành Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, trong bối cảnh quốc tế ngày càng yêu cầu minh bạch về giảm phát thải là rất cần thiết.

Tín chỉ carbon rừng. (Ảnh minh họa. Nguồn: Vietnam+)
Với diện tích rừng lớn, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn trong việc tạo ra tín chỉ carbon. Tuy nhiên, quá trình triển khai (phát triển thị trường carbon rừng) trên thực tế vẫn còn gặp một số khó khăn, vướng mắc, bởi khung pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện, nhất là về cơ chế giá.
Vì vậy, nhiều ý kiến chuyên gia, cơ quan quản lý cho rằng việc ban hành Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, trong bối cảnh quốc tế ngày càng yêu cầu minh bạch về giảm phát thải là rất cần thiết, để "mở đường" cho tư nhân, doanh nghiệp thuận lợi tham gia thị trường.
Cơ hội cụ thể hóa các cam kết về giảm phát thải
Chia sẻ tại Tọa đàm góp ý Dự thảo Nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, ngày 15/7, Phó Giáo sư - Tiến sỹ Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm nhấn mạnh dự thảo nghị định được xây dựng trên cơ sở khung pháp lý của Nghị định 06/2022/NĐ-CP, với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các chủ rừng; đặc biệt là trong việc đơn giản hóa thủ tục và tạo thuận lợi cho việc tham gia thị trường carbon.
Theo ông Bảo, khi được ban hành, nghị định trên sẽ góp phần “cởi trói” cho các chủ tín chỉ carbon, cho phép họ chủ động hơn trong việc trao đổi, chuyển nhượng hoặc bù trừ tín chỉ không chỉ trong nước mà cả với đối tác quốc tế.
Đề cập cụ thể một số nội dung đáng chú ý trong dự thảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết quy định về giá bán tín chỉ có thể theo cơ chế thỏa thuận trực tiếp hoặc tự nguyện như mô hình ERPA hiện nay.
Dự thảo trên cũng hướng tới việc thu hút mạnh mẽ sự tham gia của khối tư nhân và doanh nghiệp - những chủ thể có tiềm lực tài chính và công nghệ, nhằm gia tăng trữ lượng rừng, qua đó đóng góp thiết thực vào mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững và thực hiện cam kết về khí hậu của Việt Nam.
Thông tin thêm về dự thảo nghị định, bà Nghiêm Phương Thúy, đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết dự thảo nghị định gồm 4 chương, 18 điều, đề cập từ việc xác định lượng kết quả giảm phát thải, tín chỉ CO2 rừng được cung ứng, đến tổ chức thực hiện, quản lý nguồn thu, và cơ chế thanh toán.
"Đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng tiêu chuẩn carbon rừng trong nước, song song với cơ chế ghi nhận tín chỉ theo chuẩn quốc tế," bà Thúy nói và nhấn mạnh đây là bước hoàn thiện khung pháp lý nhằm cụ thể hóa các cam kết về giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt sau khi Việt Nam công bố mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Một trong những điểm mới là việc quy định rõ bên cung ứng dịch vụ có thể là chủ rừng nhà nước (ủy ban nhân dân xã, các tổ chức công lập), hoặc tư nhân (cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp). Còn bên sử dụng dịch vụ là các tổ chức, cá nhân trong hoặc ngoài nước có nhu cầu bù đắp phát thải carbon.
Theo bà Thúy, việc trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải hoặc tín chỉ carbon rừng được thực hiện thông qua hợp đồng hoặc sàn giao dịch carbon trong nước. Giá trị tín chỉ được tính theo đơn vị 1 tấn CO2 tương đương, và khung giá khởi điểm do ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường.
“Nếu liên quan tới rừng thuộc nhiều tỉnh, mức giá sẽ lấy theo khung cao nhất. Trong trường hợp chưa có hướng dẫn, các bên sẽ đàm phán và trình Thủ tướng quyết định,” đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm lưu ý.
Đối với rừng thuộc sở hữu toàn dân, ủy ban nhân dân tỉnh hoặc Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ đại diện triển khai dự án carbon rừng. Còn rừng thuộc quyền sử dụng của cá nhân, tổ chức, cộng đồng thì chủ rừng có thể trực tiếp tham gia hoặc ủy quyền cho đơn vị đủ điều kiện pháp nhân thực hiện dự án. Các hộ, cá nhân sở hữu rừng trồng liền kề với các dự án của tỉnh có thể tự nguyện tham gia, được xác nhận diện tích và nhận chia sẻ lợi ích.
Nguồn thu từ việc bán tín chỉ sẽ được chia theo hình thức chi trả trực tiếp hoặc thông qua Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam và các quỹ cấp tỉnh.

Rừng trồng của hộ dân cần được xem là tài sản tư nhân. (Ảnh: Hùng Võ/Vietnam+)
Theo bà Thúy, việc ban hành nghị định là cần thiết trong bối cảnh quốc tế ngày càng yêu cầu minh bạch trong nỗ lực giảm phát thải; mở ra cơ hội huy động nguồn lực tài chính bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam. Đây cũng là tiền đề để các tín chỉ carbon từ rừng Việt Nam có thể tham gia thị trường carbon tự nguyện toàn cầu như LEAF hay FCPF.
Đảm bảo tính minh bạch, hài hòa lợi ích
Qua kinh nghiệm nghiên cứu, ông Tô Xuân Phúc, Tổ chức Forest Trends, cho rằng hiện diện tích rừng, nhất là rừng trồng của các hộ dân rất lớn. Đây là những diện tích đất mà Nhà nước giao cho người dân để sản xuất và phát triển rừng lâu dài và các hộ đã tự bỏ vốn đầu tư.
Vì vậy, theo ông Phúc, rừng trồng của hộ dân cần được xem là tài sản tư nhân và các quy định liên quan nên mở rộng theo hướng cho phép người dân được toàn quyền liên doanh, liên kết và tham gia thị trường carbon.
Đối với những diện tích rừng thuộc sở hữu toàn dân hay sở hữu nhà nước, ông Phúc khuyến nghị sau khi các cơ quan chức năng hoàn tất việc tính toán mức độ đóng góp của Chính phủ Việt Nam trong mục tiêu giảm phát thải, nghị định nên được thiết kế theo hướng mở, để có thể huy động các tổ chức, doanh nghiệp hoặc dự án cùng hợp tác đầu tư, tạo ra tín chỉ carbon và tham gia giao dịch trên thị trường cả trong nước và quốc tế.
Theo ông Phúc, khi Việt Nam đã hoàn thành đầy đủ các cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC), phần tín chỉ carbon còn lại nên được tự do giao dịch một cách minh bạch, công khai để có thể huy động hiệu quả nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế hiệu quả, phục vụ cho phát triển.
Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Bá Ngãi, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Chủ rừng Việt Nam cũng đề xuất tách bạch 2 cơ chế cung ứng dịch vụ và thị trường giao dịch để đảm bảo tính minh bạch, phù hợp với định hướng luật pháp hiện hành về bảo vệ môi trường và lâm nghiệp.
“Nếu không tách bạch 2 cơ chế trên, rất dễ dẫn tới xung đột về phương thức định giá, chia sẻ lợi ích và gây khó khăn khi triển khai trên thực tế. Việc thống nhất cơ sở pháp lý giữa Luật Lâm nghiệp 2017 và Luật Bảo vệ môi trường 2020 là rất quan trọng,” Phó Giáo sư - Tiến sỹ Nguyễn Bá Ngãi lưu ý.
Ngoài ra, ông Ngãi cũng đề xuất điều chỉnh cách sử dụng thuật ngữ trong dự thảo. Cụ thể, ông đề xuất nên dùng cụm từ “carbon của rừng” hoặc “khí carbon” thay cho “khí nhà kính” để phù hợp hơn với bản chất dịch vụ đang được đề cập - là dịch vụ hấp thụ và lưu giữ CO2 thông qua tài nguyên rừng.
Với vai trò là tổ chức đại diện cho các chủ rừng, ông Ngãi cũng bày tỏ hy vọng nghị định sau khi được ban hành sẽ tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi để người dân, cộng đồng và doanh nghiệp lâm nghiệp có thể chủ động tham gia thị trường carbon.
“Đây không chỉ là cơ hội thu hút nguồn lực tài chính bổ sung cho bảo vệ và phát triển rừng, mà còn là động lực để ngành lâm nghiệp góp phần thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Việt Nam,” ông Ngãi nói./.